Nuôi cua đồng đang phát triển mạnh ở nước ta. Các mô hình nuôi cua đồng hiện nay đều cho thu lại kinh tế khá lớn và không quá khó để thực hiện. Việc nuôi cua đồng mở rộng rất nhanh và dần dần được đưa vào các môi trường nuôi trồng thủy sản khác nhau. Cụ thể là ao đất, chuồng trong hồ cạn, và ruộng lúa, v.v.
Cua đồng có hàm lượng dinh dưỡng cao, đặc biệt là can xi. Không những thế các món ăn làm từ cua đồng có vị rất ngon và dễ ăn. Bên cạnh đó, cua đồng còn được sử dụng như một vị thuốc trong đông y. Vì vậy nuôi cua đồng hiện là một thành phần quan trọng của ngành nuôi trồng thủy sản nước ngọt ở nước ta.
Mục lục nội dung
Đặc tính cua đồng
Trước đây cua đồng hay còn gọi là cua sông thường có nhiều ở sông, ao, hồ. Cua đồng khi trưởng thành có thể đạt được kích thước từ 20-35mm. Cua đực có đôi càng to và lệch nhau. Trong khi cua cái thì càng sẽ đều nhau cả 2 bên.
Cua đồng ẩn mình trong cỏ dại dưới nước hoặc cát và sỏi. Ban ngày cua thường ẩn náu trong nơi trú ẩn của chúng và đi kiếm ăn vào ban đêm. Loài này ăn tạp, ăn tôm, cá nhỏ, động vật đáy và thực vật mềm.
Nhân giống cua đồng
Giống cua đồng từng có nhiều ở các sông.Tuy nhiên, nguồn tài nguyên thiên nhiên này đã trở nên cạn kiệt nghiêm trọng đánh bắt quá mức và những thay đổi của môi trường. Hiện nay, giống cua được sử dụng cho nuôi trồng thủy sản chủ yếu được nhân giống nhân tạo.
Những con cua trưởng thành khỏe mạnh được chọn làm cua bố mẹ vào tháng 10. Cua đực và cua cái được thả trong các ao khác nhau. Cua giống đực và cái được chuyển với tỷ lệ cái: đực: 2 3: 1 vào bể giao phối chứa đầy nước vào mùa xuân năm sau (cuối tháng 2 – đầu tháng 3).
Cua đực được loại bỏ sau khi giao phối xong (thường sau hai tuần). Những con cái màu xám được nuôi trong khoảng một tháng dưới sự chăm sóc đặc biệt trước khi trứng nở. Cho ăn đầy đủ (thêm thức ăn động vật) và giữ độ mặn ổn định là rất quan trọng trong suốt thời gian nuôi.
Khoảng hai ngày trước khi trứng nở cua được chuyển sang bể ươm ấu trùng, thường ở mức ba con/ m³. Mật độ ấu trùng cua mới nở được kiểm soát ở mức 200 000–300 000 / m³.
Cua đồng được chuyển sang bể khác sau khi đạt được mật độ này.
Độ mặn giảm dần đến gần như nước ngọt khi cua được hai – ba ngày tuổi. Các loại thức ăn bao gồm vi tảo, động vật phù du, lòng đỏ trứng và tôm cá.
Sục khí và chất lượng nước tốt cũng rất cần thiết. Nhiệt độ nước tối ưu là 22–25 ° C. Cua hơn năm ngày tuổi đã sẵn sàng để thả vào ao cua giống.
Hệ thống nuôi cua một giai đoạn
Các ao đất, thường có diện tích 350–1 320 m², thường được sử dụng để nuôi cua giống và thường thả ở mức 130–150 / m² ở vùng nước nông (~ 50 cm). Độ sâu của nước tăng dần lên 1–1,2 m vào giữa mùa hè và duy trì ở mức đó sau đó.
Trong giai đoạn đầu (đến lần lột xác thứ 3), cua ăn chủ yếu thức ăn tự nhiên bằng cách bón phân hữu cơ. Thức ăn bổ sung, chẳng hạn như sữa đậu nành và thức ăn dạng sệt (cám mì, bánh đậu nành, cám gạo, v.v.) cũng được sử dụng.
Sau giai đoạn này, cua được gọi là cua giống giai đoạn III và trở thành thức ăn ở tầng đáy. Có thể cho ăn cả thực vật (cỏ dại dưới nước, cỏ trên cạn, bí ngô, các loại ngũ cốc và phụ phẩm của chúng) và thức ăn gia súc (chủ yếu là nhuyễn thể nước ngọt nghiền nhỏ và cá chất lượng thấp). Tỷ lệ thức ăn chăn nuôi nên là 20–30 phần trăm tổng số nhưng tăng lên 40 phần trăm khi nhiệt độ nước giảm vào cuối mùa thu.
Cần có hàng rào bằng tấm nhựa để ngăn cua thoát ra ngoài. Đáy ao nên được làm dốc để cung cấp nước nông hơn nhiều dọc theo bờ đê hướng ra mặt trời. Trồng cỏ thủy sinh phủ kín 1/3 đáy ao. Chất lượng nước tốt và kiểm soát động vật ăn thịt là điều cần thiết. Thông thường, có thể sản xuất 1 200 kg / ha cua giống (cỡ 10-15 g mỗi con).
Hệ thống nuôi cua đồng hai giai đoạn
Một phương pháp khác được sử dụng để nuôi cua giống là nuôi cua giống trong bể xi măng ở 30 000–60 000/ m². Hoặc 6 000–10 000/ m² trong lồng lưới mịn, hoặc 500–3 000/ m² trong đất ao cho đến khi chúng trở thành cua con giai đoạn III; quá trình này thường mất 20-25 ngày.
Cua được cho ăn hỗn hợp bột làm từ bột đậu nành, bánh đậu phộng và cám lúa mì, động vật phù du lớn, cỏ dại mềm. Sau khi chúng trở thành cua giai đoạn III, chúng được chuyển sang ao đất hoặc ruộng lúa ở 40 / m² trong ao đất để nuôi tiếp.
Các hình thức nuôi cua đồng thương phẩm
Nuôi cua trong ruộng lúa
Khi ruộng lúa được sử dụng để nuôi cua giống, cần đào rãnh ngoại vi và rãnh chéo; chúng phải sâu 50 cm và rộng 50–60 cm. Cỏ dại thủy sinh cần được trồng trong rãnh để có nơi trú ẩn. Hàng rào tấm nhựa ngăn cua thoát ra ngoài. Trong hệ thống này, mật độ thả cua là 70–140 / m². Các khía cạnh quản lý khác tương tự như nuôi trong ao.
Do thời gian nuôi ngắn nên sử dụng mật độ thả thấp hơn nhiều (7–20 g cua, 6 000–9 000 / ha). Điều này dẫn đến kích thước sản phẩm tương đối lớn. Việc thả giống thường xảy ra vài ngày sau khi cấy lúa. Nếu thả cua trước, điều rất quan trọng là phải giữ chúng trong rãnh khi cấy lúa; nếu không, cua giống có thể bị thiệt hại nặng.
Cua dựa vào thức ăn tự nhiên trong ruộng lúa nhiều hơn là nuôi trong ao và chuồng. Tuy nhiên, vẫn cần cho ăn bổ sung trong mùa sinh trưởng nhanh. Thức ăn được sử dụng tương tự như thức ăn trong ao và chuồng nhưng số lượng giảm nhiều. Khía cạnh quản lý quan trọng nhất là kiểm soát việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.
Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không thể tránh khỏi hoàn toàn trong suốt thời kỳ trồng lúa. Vì vậy cần phải lựa chọn cẩn thận các loại thuốc trừ sâu và hóa chất, phương pháp sử dụng và thời điểm sử dụng. Việc ngăn chặn cua thoát ra khỏi ruộng lúa trong quá trình quản lý nước của chúng cũng rất quan trọng.
Với việc quản lý tốt, có thể thu hoạch 7 500 kg/ ha lúa và 450–750 kg / ha cua từ hệ thống nuôi này.
Nuôi cua đồng trong ao
Ao nuôi cua đồng thường rộng 0,15–0,35 ha và sâu 1,5–2 m. Cỏ dại thủy sinh được trồng ở các khu vực cạn của ao để tạo nơi trú ẩn cho cua lột xác và hàng rào bằng tấm nhựa được sử dụng để ngăn cua thoát ra ngoài. 5–10 g cua được thả ở 22 500–37 500 con / m², thường vào đầu mùa xuân.
Người ta thường thả khoảng 3.000 cá chép bạc và cá mè hoa (thường theo tỷ lệ 7: 3). Và 500 cá chép diếc để tận dụng thức ăn tự nhiên và kiểm soát chất lượng nước. Thức ăn được sử dụng bao gồm cả thực vật. Như cỏ dại thủy sinh, bí ngô, rau, bánh đậu nành, bánh đậu phộng, bánh hạt cải, lúa mạch, ngô, cám lúa mì, v.v..
Và nguyên liệu thức ăn chăn nuôi. Như cá nhỏ, tôm, nhuyễn thể nước ngọt nghiền nhỏ, chất thải lò mổ, nhộng tằm, bột cá, giun đất và các động vật thủy sinh không xương sống khác.
Tỷ lệ cho ăn phụ thuộc vào nhiệt độ nước và bắt đầu cho ăn khi nhiệt độ đạt 10 ° C. Cần đặc biệt chăm sóc cua trong quá trình lột xác. Đặc biệt là để duy trì chất lượng nước tốt và loại bỏ động vật có hại. Cua thường đạt kích cỡ bán ra thị trường (đạt kích thước khoảng 20-30mm) vào cuối mùa thu.
Nuôi cua đồng trong lồng lưới
Nuôi cua đồng thường được thực hiện ở các hồ nước nông và hồ chứa. Phần đáy của chuồng được chôn xuống đất đáy. Còn phần mép trên cách mặt nước khoảng 0,8 m và được kéo dài vào trong bằng lưới ngang.
Chuồng cua thường có diện tích từ 2–20 ha và thường được thả cùng lúc với ao nuôi. Tuy nhiên, kích thước thả lớn hơn (từ 10–15 g) và mật độ thấp hơn (thường 10 000–15 000 / ha). Cho ăn và quản lý khác tương tự như nuôi trong ao.
Do chất lượng nước tốt, kích thước thả lớn và mật độ thả tương đối thấp nên cua thu hoạch từ ao lớn hơn từ ao và ruộng. Chúng cũng thường có giá thị trường cao hơn nhiều, do kích thước lớn hơn và chất lượng vượt trội.
Chi phí sản xuất khác nhau rất nhiều, theo hệ thống sản xuất và mức đầu vào. So sánh, chi phí sản xuất trong nuôi trong ao và chuồng tương đối cao hơn trong khi nuôi trong hồ. Nuôi cua trong ruộng lúa là trung gian.
Dịch bệnh và các biện pháp kiểm soát
Dịch bệnh đã trở thành một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sản lượng và lợi nhuận kinh tế của nghề nuôi cua đồng. Các bệnh chính thường thấy trong nuôi cua và đặc điểm chẩn đoán cũng như cách điều trị được trình bày dưới đây.
Bệnh run
Nguyên nhân do virus và vi khuẩn
Biểu hiện: Chân cua co giật hoặc bị liệt; chuyển động chậm; giảm phản ứng với các kích thích bên ngoài; ngừng cho ăn và trở nên vô tri vô giác; mang hơi đen, xám hoặc trắng; cơ hơi đỏ; trở nên thối và có mùi.
Phòng bệnh: khử trùng ao hoàn chỉnh; loại bỏ phù sa quá mức; trồng cỏ dại thủy sinh; duy trì chất lượng nước tốt và dinh dưỡng cân bằng
Điều trị: không hiệu quả
Bệnh loét vỏ
Bệnh gây nên do vi khuẩn
Biểu hiện: Các chân bị tổn thương và loét đen, lan ra từng đoạn chân và vùng sống lưng trung tâm; đốm trắng trên tấm ngực, trũng ở trung tâm và chuyển sang vết loét màu nâu sẫm; màng da và cơ có thể nhìn thấy qua các lỗ thối trên vỏ
Phòng ngừa: xử lý cẩn thận; dinh dưỡng cân bằng; tránh ô nhiễm kim loại nặng; ao với liều lượng 15–20 ppm vôi sống. Duy trì chất lượng nước tốt và độ sâu hợp lý của phù sa đáy (5–10 cm)
Xử lý: ao với liều lượng 2 ppm bột tẩy trắng. Đồng thời sử dụng thức ăn có thuốc (sulfonamides 0,1–0,2% thức ăn) trong 3-5 ngày; liều lượng ao với 2,5–3 ppm terramycin mỗi ngày một lần trong 5–7 ngày. Sử dụng thức ăn có tẩm thuốc (0,05–0,1% terramycin) trong 1–2 tuần.
Bệnh đen mang
Nguyên nhân: vi khuẩn
Biểu hiện: Các sợi mang lúc đầu màu nâu sẫm, sau chuyển hẳn sang màu đen; chuyển động chậm; khó thở
Phòng trừ: giữ độ sâu phù hợp của phù sa đáy (5–10 cm); liều lượng ao với 15–20 mg / lít vôi sống 15 ngày một lần trong mùa dịch bệnh lớn; Thường xuyên bổ sung nước mới vào ao để duy trì chất lượng nước tốt
Xử lý: bón cho ao 2 lần với 15–20 mg / lít vôi sống
Trên đây là hướng dẫn về cách nuôi cua đồng thương phẩm cho bà con. Tùy từng điều kiện ở địa phương, bà con nên chọn cách nuôi cua đồng sao cho hợp lý để đạt hiệu quả kinh tế cao.
Theo: Băng Giá