Bạn là người chăn nuôi bò thịt và đang tìm kiếm những phương pháp, kỹ thuật để nâng cao năng suất? Để làm được điều này, bạn cần phân tích các yếu tố khác nhau trong kỹ thuật nuôi để đưa ra quyết định, lựa chọn tốt nhất. Dưới đây là những gợi ý của chúng tôi về kỹ thuật nuôi bò thịt.
Mục lục nội dung
Chiến lược cho ăn
Là một trong những kỹ thuật nuôi bò thịt quan trọng nhất, bạn nên biết mức tiêu thụ của một con bò thịt trưởng thành là khoảng 5 tấn thức ăn thô xanh mỗi năm. Đây là khoản mục chi phí quan trọng nhất mà bạn cần tính đến.
Chất lượng và số lượng thức ăn được sản xuất và phân phối là điều cần thiết để có thu nhập. Loại bò thịt được nuôi phải phù hợp với tiềm năng sẵn có của vùng. Ví dụ như đất, nước, khí hậu.
Ở các vùng đồng cỏ, chăn nuôi bò sữa sẽ có lợi thế hơn do tận dụng tốt nhất sản lượng cỏ. Có thể vỗ béo những con bò đực bằng ngô ủ chua nếu năng suất của cây trồng ở mức tốt.
Để đạt được năng suất cao nhất thì việc nắm kiến thức về thức ăn chăn nuôi. Như khẩu phần, giá trị dinh dưỡng… là điều kiện tiên quyết. Điều này sẽ giúp bạn tính toán khẩu phần ăn một cách chính xác nhất. Đồng thời có thể tối ưu hóa chi phí.
Số lượng bò
Để duy trì quyền tự chủ về thức ăn, người chăn nuôi có thể phải giảm số lượng bò để chuyển sang nuôi vỗ béo. Việc vỗ béo ít tốn công sức hơn so với việc chăn dắt bò. Vì vậy có thể tối ưu hóa thời gian làm việc của bạn.
Sự tăng trưởng kích thước trong mùa đông bị hạn chế, giới hạn ở mức tối đa 600gam mỗi ngày. Đây cũng giai đoạn để cỏ phát triển trở lại.
Vào mùa xuân, bò thịt có thể đạt hơn 1000 gram mỗi ngày với khẩu phần ăn chỉ có cỏ. Mức tăng trưởng quá cao trong mùa đông sẽ dẫn đến giá trị chăn thả kém vào mùa xuân năm sau.
Ngoài ra, tăng trưởng bền vững trong mùa đông đòi hỏi cần có thức ăn tinh. Điều này sẽ làm tăng chi phí sản xuất.
Thức ăn
Những con vật chậm lớn này, được vỗ béo trung bình trong ba năm tuổi. Sau khoảng 8 tháng trên đồng cỏ với bò mẹ và đã được cai sữa. Chế độ ăn của chúng thay đổi giữa các giai đoạn chăn thả hoàn toàn.
Không có thức ăn khác ngoài cỏ vào mùa xuân, mùa hè và mùa thu. Với các giai đoạn cho ăn trong trang trại vào mùa đông. Khi cỏ không mọc nữa, phải tiêu thụ thức ăn gia súc dự trữ khác với ngũ cốc.
Chế độ ăn uống của bò đực non khá tiêu chuẩn. Đa phần chúng được nuôi bằng thức ăn gia súc chứa thành phần là ngô. Loại thực phẩm giàu năng lượng này, giàu carbohydrate nhưng ít protein.
Khẩu phần thức ăn của gia súc nói chung và củ động vật nhai lại nói riêng, về cơ bản bao gồm thức ăn gia súc. Bao gồm một số loại sau đây:
Thức ăn gia súc xanh
Bò thịt sẽ được được nuôi chăn thả và trực tiếp tiêu thụ loại thức ăn này: cỏ, cỏ linh lăng, hạt cải dầu… Cỏ là thức ăn chính cho gia súc (trung bình 60%)
Thức ăn được thu hoạch và dự trữ để tiêu thụ trong mùa đông
Bao gồm thức ăn gia súc khô như cỏ khô (cỏ được cắt nhỏ sau đó phơi trên đồng cỏ trước khi thu hoạch), hoặc thậm chí rơm rạ.
Ủ chua được bảo quản sau khi nghiền trong silo (hầm hoặc tháp cao ủ tươi thức ăn). Và được bảo quản bằng phương pháp axit hóa trong điều kiện không có oxy.
Ủ chua từ ngô, cỏ, đôi khi từ cao lương hoặc bột củ cải đường thêm nhiều hoặc ít thức ăn gia súc khô, để ngoài không khí trong bọc nhựa. Đây là sản phẩm trung gian giữa cỏ khô và thức ăn ủ chua.
Khẩu phần ăn
Người chăn nuôi là người hiểu rõ vật nuôi của mình sẽ biết cách đánh giá nhu cầu và điều chỉnh khẩu phần ăn của chúng cho phù hợp. Đặc biệt, nên bổ sung cho bò thịt thức ăn cô đặc, có nguồn gốc thực vật và khoáng chất.
Bổ sung thảo dược được sản xuất trong trang trại, đặc biệt là ngũ cốc. Bánh cung cấp protein được làm từ hạt của các loại cây có dầu. Như đậu nành, hạt lanh, hướng dương hoặc hạt cải dầu, sau khi đã chiết xuất dầu.
Bổ sung năng lượng được cung cấp bởi ngũ cốc giàu carbohydrate như lúa mì, lúa mạch và ngô hoặc các loại thực vật khác như củ cải đường ở dạng bột.
Có thể cung cấp các chất bổ sung khoáng (canxi, phốt pho) và vitamin. Chúng hoặc được bổ sung trực tiếp vào thức ăn của bò thịt hoặc các chất bổ sung thực phẩm khác.
Hoặc được thả tự do trên đồng cỏ hoặc trong chuồng trại. Dưới dạng một khối muối khoáng mà người chăn nuôi gọi là “đá liếm”.
Khẩu phần của bò thịt trung bình gồm 64% cỏ, 20% ngô ủ chua, 10% ngũ cốc, 5% bột và 1% khoáng và vitamin.
Khẩu phần mùa đông
Bao gồm 6 kg cỏ khô và 0,8 kg hỗn hợp lúa mạch-đậu (hoặc hỗn hợp ngũ cốc-protein khác) cho mỗi con trên một ngày. Ngoài ra, có thể gồm 3kg rơm rạ, 6 kg kiện cỏ khô mà không cần thêm thức ăn tinh.
Lựa chọn thứ ba bao gồm 9kg cỏ khô và 0,6 kg đậu lúa mạch (hoặc cây ngũ cốc-protein). Bạn cũng có thể tạo khẩu phần bao gồm 4 kg rơm rạ và 6 kg kiện cỏ khô và không thêm thức ăn tinh.
Nước
Người chăn nuôi cung cấp cho bò thịt nước uống sạch trên đồng cỏ hoặc trong chuồng và phải được cung cấp đều đặn, liên tục.. Ví dụ, một con bò thịt trưởng thành có thể tiêu thụ tới 100 lít nước mỗi ngày. Tùy thuộc vào tính chất của khẩu phần, mùa vụ và hình thức chăn nuôi.
Tăng sản lượng thức ăn thô xanh
88% thức ăn cho gia súc được sản xuất trực tiếp tại trang trại. Các đồng cỏ tự nhiên được sử dụng rộng rãi từ trước cho đến nay đang trở nên cạn kiệt và mất khả năng chăn nuôi.
Vì thế, cần phải sử dụng nhiều biện pháp tăng sản lượng loại thức ăn này. Chẳng hạn: sản xuất cỏ nhân tạo, trồng trọt, sản xuất các sản phẩm thức ăn chăn nuôi…
Bò thịt bị giảm hoặc tăng trọng lượng tùy theo khối lượng thức ăn gia súc sẵn có thay đổi theo mùa. Phải mất một thời gian nhất định để chúng lấy lại cân nặng khi thức ăn thô xanh không đáp ứng đủ trong mùa khô.
Xét từ góc độ năng suất chăn nuôi thì đây là một điều bất lợi. Để bò thịt phát triển khỏe mạnh thì nguồn cung cấp thức ăn cân bằng phải được duy trì quanh năm.
Vào mùa mưa, người chăn nuôi nên xem xét việc trồng hạt kê. Sau đó phơi khô và bảo quản để cung cấp cho bò thịt trong mùa khô. Ngoài cám kê thì bạn có thể sử dụng các phụ phẩm nông nghiệp khác. Như từ cây cao lương, cây đậu đũa, cây họ đỗ,…
Đánh giá năng suất và hiệu quả di truyền
Hàng năm phải thực hiện đánh giá năng suất để đưa ra những thay đổi trong kỹ thuật nuôi bò thịt. Đây là cơ hội để xác định và đánh giá mức năng suất hiện tại của đàn bò và xếp hạng các cá thể trong đàn theo các đặc điểm phù hợp với điều kiện kinh tế.
Ngoài ra, để đảm bảo thu nhập, người chăn nuôi cũng phải đánh giá về chất lượng di chuyển. Các chỉ số như độ dễ đẻ, khả năng tăng trưởng và khả năng cho sữa là những tiêu chí nên xem xét. Việc này sẽ giúp bạn thay đổi hoặc tiếp tục duy trì giống bò thịt đang nuôi.
Đất
Đất cũng là một yếu tố cần lưu ý trong kỹ thuật nuôi bò thịt. Cách khôi phục lại một trang trại đã bị hao mòn là thông qua việc duy trì số lượng vật nuôi mà thức ăn sẵn có (cỏ) ở đó đáp ứng được. Chỉ tăng quy mô đàn khi số lượng và chất lượng thức ăn cho phép.
Đầu tiền, bạn nên kiểm tra độ nhiễm bẩn của đất để xác định các khoáng chất và nguyên tố vi lượng có thể bị thiếu.
Bón đầy đủ phân bón, các chất khoáng và các nguyên tố khác. Để có được kết quả mong muốn và gieo hạt lên đồng cỏ những loại thức ăn thô xanh thích hợp với loại đất và khí hậu.
Nếu bạn muốn tạo ra một đồng cỏ trên những vùng đất cằn cỗi, nghèo chất dinh dưỡng. Thì cần cải tạo lại bằng phân bón (đá vôi, nitơ, phốt phát và kali).
Có hai mô hình chăn nuôi bò thịt phổ biến là định canh định cư và du canh du cư. Du canh du cư là phương pháp truyền thống thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả nguồn thức ăn gia súc khan hiếm theo mùa trên diện tích lớn.
Nói cách khác là dựa vào thảm thực vật tự nhiên. Tuy nhiên tài nguyên đất đai còn bị hạn chế. Và nếu chỉ dựa vào thảm thực vật tự nhiên thôi thì chưa đủ.
Vì vậy, bên cạnh chăn nuôi du canh du cư truyền thống. Cần phát triển chăn nuôi định canh định cư. Nhằm sử dụng bền vững tài nguyên đất trong vùng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý chăn nuôi.
Đồng cỏ
Để phát triển đồng cỏ và khai thác một cách bền vững cần phải bố trí đồng cỏ luân phiên:
Để bò thịt ăn cỏ tối đa 6 ngày trên cùng một ô đất. Biết rằng thời gian chăn thả 2 ngày trên mỗi ô sẽ cải thiện thêm sự phát triển của cỏ.
Tăng hiệu quả chăn thả
Để thiết lập trật tự và làm cho việc chăn thả hiệu quả hơn. Nên xem xét việc phân chia khu vực chăn thả thành hai. Đầu tiên là diện tích đất chăn thả trong khu vực chăn thả định canh (đồng cỏ tự nhiên và hoang hóa).
Và khu vực thứ hai được tạo thành từ các bãi chăn thả khác trong khu vực chăn nuôi du cư. (Đồng cỏ tự nhiên được sử dụng đặc biệt để chăn thả gia súc).
Giai đoạn xuất chuồng
Nhằm tối đa hóa lợi nhuận, bạn cần có những kỹ thuật nuôi bò thịt thời điểm trước khi bán ra thị trường. Giai đoạn này kéo dài từ 4 đến 5 tháng với thức ăn tinh gồm ngũ cốc, đủ để cân bằng khẩu phần.
Hoặc cỏ khô sẽ làm thức ăn thô xanh duy nhất. Trong quá trình xuất chuồng, khẩu phần được bổ sung bằng thức ăn tinh. Số lượng được giới hạn ở mức 5,5 kg mỗi ngày.
Bắt đầu bằng cách phân phối 3kg mỗi ngày và tăng 1kg mỗi tuần. Trong trường hợp khẩu phần có cỏ khô, ngũ cốc được giới hạn ở mức 4,5 kg/con/ ngày.
Để đảm bảo khẩu phần ăn cả về số lượng lẫn chất lượng thì rơm rạ và/hoặc cỏ khô phải có chất lượng tốt. Tốt nhất là không quá 3 kg thức ăn tinh mỗi bữa ăn cho một con. Nên cho chúng ăn cỏ khô trước.
Bạn nên có những chiến lược nhằm tối ưu hóa mức tăng trưởng trọng lượng cần đạt được khi xuất bán. Bạn có thể bán chúng vào hai giai đoạn đẻ là mùa thu và mùa xuân. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc bán thịt bò và dễ dàng xuất chuồng hơn trong giai đoạn chăn thả (vẫn cần bổ sung thức ăn tinh)
Theo: Ngọc Lan